Tác giả: DSCKII. Trần Trung Nam- GSII. Vũ Văn Chuyên
Tác giả: DSCKII. Trần Trung Nam- GSII. Vũ Văn Chuyên
Offenbar hast du diese Funktion zu schnell genutzt. Du wurdest vorübergehend von der Nutzung dieser Funktion blockiert.
Wenn dies deiner Meinung nach nicht gegen unsere Gemeinschaftsstandards verstößt,
Điều mong ước “Trường sinh bất lão” không những chỉ là giới quyền quý cao sang mà còn là ước mơ của nhân loại. Bởi vậy, ngay từ thời xa xưa, các danh y đã dày công tìm kiếm những phương thuốc có công hiệu ấy.
Trong quá trình tìm kiếm, họ đã phát hiện ra một phương thuốc thần diệu như thuốc tiên để kéo dài tuổi thọ. Đây là phương thuốc được các danh y Trung Quốc đã tìm ra có lẽ vào thời Tây Hán và đặt tên là “Bát tiên trường thọ” (có lẽ phương thuốc được các danh y nổi tiếng thời bấy giờ như thánh y Trương Trọng Cảnh mà khi ấy vị vua trị vì là Hán Vũ Đế, tên thật là Lưu Triệt (156 TCN – 87 TCN), là vị Hoàng đế thứ bảy của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Tương truyền vua Vũ Đế đời nhà Hán (Trung Quốc) muốn bất tử nên đã sai các bậc lương y nổi tiếng thời ấy chế ra các thuốc Đan sa để uống. Do uống nhiều quá, chẳng những không thành tiên để hưởng sự bất tử, mà nhà vua còn mắc thêm chứng bệnh bị sốt, khát nước, đi tiểu nhiều lần…, làm sức khỏe suy sụp. Trương Trọng Cảnh (tên hiệu là Tràng Sa), là một lương y nổi tiếng của Trung Quốc thời bấy giờ, đã chế ra phương thuốc “Bát vị” sắc cho nhà vua uống làm sức khỏe của vua hồi phục. Về sau qua ứng dụng trong trị liệu, Thánh y Trương Trọng Cảnh, Tiên Ất và các bậc lương y nổi tiếng khác tiếp tục gia giảm, biến hóa thành "Bát tiên trường thọ” và được lưu giữ, ứng dụng cho đến ngày nay.
Phương thuốc ”Bát tiên trường thọ” ta thấy nó tác dụng đến các tạng phủ của cơ thể khiến có công năng kéo dài tuổi thọ đến thần diệu.
Phương thuốc có tám vị, như các danh y xưa đã chọn. Với cách phối ngũ thật tuyệt vời khiến phương thuốc đã phát sinh công năng tăng cường tối đa việc bồi bổ thận âm nhằm kéo dài tuổi thọ cho cơ thể. Phương “Bát tiên trường thọ” bao gồm các vị như Thục đia 16g, Sơn thù 8g, Hoài sơn 8g, Phục linh 6g, Đơn bì 6g,Trạch tả 6g, Mạch môn 6g, Ngũ vị tử 4g. Ngày uống 1 thang, chia 3 lần, cần uống liền 7 – 10 ngày...
Xét từng vị trong phương cho thấy: Thục đia có tác dụng trực tiếp vào thận để bổ thận âm, bổ tinh, sinh huyết. Vị Sơn thù tác dụng bổ liễm âm, giữ tinh, ích khí, đuổi phong tà, phối hợp để tăng tác dụng bổ thận âm của vị thục địa. Hoài sơn tác dụng vừa bổ thận, vừa kiện tỳ, phối hơp với phục linh giúp cho tỳ vị tăng cường khả năng vận hóa chất dinh dưỡng từ thức ăn, uống để nuôi cơ thể và biến thành tinh, huyết đưa về tàng trữ tại thận. Phục linh được phối hợp với Hoài sơn để kiện tỳ vị, vừa thanh trừ thấp nhiệt ở hạ tiêu, làm cho thận âm khỏi bị hao tán. Đơn bì tác dụng thanh trừ nhiệt ở tạng can, tạng tâm để yên cho tạng thận. Trạch tả tác dụng lợi tiểu để trừ thấp nhiệt ở hạ tiêu, làm dưỡng khí bố lên làm thính tai, mắt. Mạch môn tác dụng bổ phế âm, tức là gián tiếp bổ thận âm lại còn có tác dụng thanh nhiệt ở tạng tâm. Ngũ vị tử tác dụng bổ thận, dưỡng tâm huyết, sinh tân dịch.
Phương “Kim quỹ thận khí hoàn” của Thánh y Trương Trọng Cảnh.
Vào thời Đông Hán (năm 25 - 220 sau Công Nguyên, còn gọi là thời Hậu Hán), Thánh y Trương Trọng Cảnh (các thầy thuốc về sau đều gọi là Tôn Sư, tôn ông là Thầy, vì công lao trước tác của ông để lại cho hậu thế quá lớn. Trong Đông y tôn ông là Y Thánh) đã lập ra phương Bát vị thận khí hoàn (còn gọi là Kim quỹ thận khí hoàn, Quế phụ địa hoàng hoàn, để phân biệt với Tế sinh thận khí hoàn). Cho tới ngày nay phương thuốc này vẫn được trọng dụng.
Phương thuốc gồm: Can địa hoàng (Sinh địa) 32g, Sơn dược 16g, Sơn thù (sao rượu) 16g, Phục linh 12g, Trạch tả 12g, Đan bì 12g, Quế chi 8g, Phụ tử (chế) 8g.
Toàn phương có công năng chủ trị các chứng thận dương bất túc. Lưng là phủ của Thận, Thận là gốc của Tiên thiên, trong đó ẩn chứa Mệnh môn hỏa. Nơi động khí của Thận chính là Mệnh môn. Nạn thứ 8 sách Nạn Kinh có chép: “Đây là rễ của mười hai kinh mạch, là cửa của hô hấp, là nguồn của tam tiêu”. Đàm ẩm, thủy thũng, cước khí, chuyển bào (phụ nữ có thai bí tiểu (dùng cẩn thận)). Lưng đau chân mỏi, từ nửa thân trở xuống thường lạnh giá, bụng dưới đau co thắt, tiểu tiện không thông, hoặc tiện nhiều lần, về đêm càng tiểu nhiều, dương nuy (liệt dương), tảo tiết (xuất tinh sớm). Lưỡi nhạt mà nhớt, mạch hư nhược. Bộ xích trầm tế.
Đến giai đoạn triều nhà Thanh cũng là thời thịnh vượng nhất trong các triều chính phong kiến Trung Quốc. Bởi vậy ngoài yêu cầu “trường sinh bất lão” người ta còn có nhu cầu làm đẹp. Từ đó mà nhiều phương thuốc trường sinh và dưỡng nhan được ra đời.
Như chúng ta đã biết, Từ Hy là người thống trị thực tế của cả hai triều Đông Trị và Quang Trị cuối đời Thanh Trung Quốc. Bà là một người không chỉ giỏi về mưu kế thao lược, quyền hành mà còn là một người có thuật làm đẹp thật xuất sắc. Chính vì vậy mà ngay cả khi bà đã bước vào tuổi cao niên nhưng dung nhan của Từ Hy vẫn không suy giảm, bà vẫn giữ được phong thái như xưa, luôn trường thọ, bất lão. Dưới đây xin giới thiệu những bí phương mà thời nhà Thanh Từ Hy Thái Hậu đã tin dùng.
Một số phương từ cúc hoa dùng trong các phương thuốc dưới đây là các loại cúc như Cam cúc, bạch cúc hoa, cúc hoa hồng, hoàng cúc,…đều thuộc họ Cúc Asteracae (Compositae).
Cúc hoa diên linh cao (phương thuốc bí truyền trích từ trong cuốn “Từ Hy Quang Tự y phương tuyển nghị” của Trần Khả Dực đời nhà Thanh) Cách chế đơn giản chỉ cần đem những cánh hoa cúc tươi (mỗi lần có thể nấu chừng 2kg; nếu là hoa cúc khô thì có thể nấu mỗi lần chừng 500g là vừa) đổ ngập nước, nấu còn một nửa, lọc bỏ bã, lấy nước cô lại cho đặc. Trộn nước thuốc này với mật ong để nấu thành cao. Ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần dùng 12 - 15g pha với nước sôi để nguội, uống vào lúc đói bụng.
Trong phương này gia thêm mật ong trắng cho cô lại thành cao thì càng tăng cường tác dụng tích cực, khiến con người cơ thể nhẹ nhàng mà không có cảm giác đói, trẻ lâu, kéo dài tuổi thọ vì mật ong có tính vị cam bình, bổ trung ích khí, nhuận phế, giải độc hết đau, thanh nhiệt lọc máu… Dùng cao này thường xuyên có thể làm da dẻ hồng hào tươi mịn, tóc xanh… Bởi thế mà ngày xưa Từ Hy Thái Hậu đặc biệt yêu thích dùng cao Cúc hoa để được trường sinh bất lão.
Đây là phương thuốc do Trương Trọng Nguyên và Đào Bảo Sinh chế cho Từ Hy Thái Hậu uống để sống lâu và giữ sắc đẹp lâu bền .
Bột Cúc hoa tăng sắc đẹp (theo sách “Bảo Phác Tử” của Cát Hồng đời Tần)
Hoa Cúc trắng 500g (hái ngày 9 tháng 9 âm lịch), Phục Linh 500g. Hai vị tán bột, trộn đều. Mỗi lần uống 6g với rượu ấm, ngày 3 lần. Uống lâu ngày sắc mặt sẽ hồng nhuận, mịn màng diễm lệ. Bài thuốc này ở sách “Phố tế phương” của Chu Túc, đời Minh. Gọi là trường thọ cúc hoa tán, có tác dụng tăng tuổi thọ.
Dưỡng thọ đơn (Theo sách “Ngự dược viên phương” của Hứa Quốc Trinh)
Cúc hoa, Câu kỷ tự, Viễn chí, Thạch xương bồ, Ba kích, Bạch truật, Phục linh, Địa cốt bì, Tục đoạn, Tế tân,Thục địa, Xa tiền tử, Hà thủ ô, Nhục thung dung, Thỏ ty tử, Phúc bồn tử. Mỗi thứ 30g, tán bột, luyện với mật ong, viên bằng hạt ngô, mỗi lần uống 10g, ngày 2 lần, lúc bụng đói. Phương thuốc này bổ ngũ tạng, làm đẹp dung nhan, uống lâu càng khỏe và lâu già.
Mầm cúc lấy vào thượng tuần tháng 3, lá cúc hái vào tháng 6, hoa cúc hái vào tháng 9, nhổ cả cây, rễ vào tháng 12, cả 4 thứ phơi trong râm cho khô, số lượng bằng nhau tán nhỏ. Liều dùng 1 đồng cân/lần, ngày 3 lần, hoặc luyện với mật ong, làm viên bằng hạt ngô, liều 7 viên mỗi lần, ngày 3 lần. Uống liền trong 100 ngày sẽ kéo dài tuổi thọ.
Người xưa thường dùng hoa cúc kèm với nếp để cất rượu, gọi là “rượu cúc” hay còn gọi là “Hoàng hoa tửu”. Kinh Thi có câu “Thu ẩm hoàng hoa tửu” - mùa thu uống rượu hoa cúc.
Những ai không dùng được rượu có thể thưởng trà cúc, theo cách đơn giản như sau: Trà không ướp, bạch cúc (hoa cúc trắng khô), cam thảo; sau khi hãm rót trà ra chén, lấy một bông cúc trong bình trà thả vào chén trà, thì cũng sẽ có đủ “vị, hương, sắc” của bạch cúc hoa.
Cảnh Làm cho da tươi mịn, mềm mại, chống lão hóa:
Đây là phương “Từ Hy Thái Hậu trú nhang phương” được trích trong “Ngự hương phiêu diên lạc” là một bí phương chỉ sử dụng trong triều chính Trung Hoa, ngày xưa được sử dụng cho Từ Hy Thái Hậu để lảm đẹp và luôn trường thọ bất lão. Dược liệu: Trân châu, lượng tùy ý.
Cách bào chế: Rửa sạch lấy vải bọc lại, đem nấu với đậu phụ khoảng 2 giờ, thì vớt trân châu ra giã nghiền nát thành bột mịn, để khô cất đi dùng dần.
Cách dùng: Mỗi ngày uống từ 7 – 8g bột trân châu với nước trà nóng. Nhớ phải cách 10 ngày mới uống 1 lần nữa như vậy. Là một dược liệu được coi là vị thuốc quý, vì trong trân châu có chứa trên 10 loại acid amine và nhiều yếu tố vi lượng rất cần cho cơ thể, đặc biệt là có thể cải thiện được trạng thái dinh dưỡng của da và còn làm tăng cường hoạt lực của adenosine triphosphate, ATP trong tế bào cơ thể. Từ đó thúc đẩy quá trình trao đổi chất vì vậy trân châu được xem là vị thuốc dưỡng nhan, làm đẹp. Tuy vậy trân châu không chỉ là vị thuốc làm đẹp mà còn được sử dụng để bào chế thành những loại thuốc chữa bệnh rất hiệu quả, nổi tiếng dùng làm thuốc an thần, thanh nhiệt, bổ âm, sáng mắt, giải độc và sinh cơ nhục...
Thật vậy, trong công nghiệp dược hiện đại trân châu (ngọc trai) vẫn được sử dụng để làm thuốc để chữa trị nhiều bệnh. Chẳng hạn những viên trân châu được nghiền thành bột để trở thành một loại thuốc bổ sung can xi cao cấp. Người ta đã nghiên cứu thấy, can xi trong trân châu có khả năng cân bằng dinh dưỡng. Cụ thể là có rất nhiều những thành phần mà cơ thể con người cần thiết như các loại acide amino, vitamine và cùng những nguyên tố vi lượng với một tỷ lệ hợp lý nên có lợi cho quá trình hấp thụ canxi của con người, song ở ngọc trai lại có tính hấp thu tốt, tỷ lệ hấp thụ bình quân đạt tới 95%.
Người ta còn phát hiện ra 10 tác dụng lớn của canxi ở trân châu như phòng trị chứng loãng xương, tăng sản tố chất xương, phòng chống chứng nhuyễn xương ở trẻ, thúc đẩy sự phát triển xương cốt ở cả thanh thiếu niên. Ngoài ra còn khả năng phòng chống bệnh cao huyết áp và xơ vữa động mạch hay tắc mạch máu não. Bảo hộ chức năng hệ thần kinh, chống lại sự co rút cơ bắp, thống kinh hay hội chứng khi mang thai. Tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể, chống mệt mỏi và kéo dài tuổi thọ. Duy trì chế độ canxi ổn định cho cơ thể, bổ gan và phòng chống sỏi thận. Tăng cường chức năng của hệ thần kinh trung ương, ổn định tinh thần, nâng cao chất lượng giấc ngủ. Tăng cường sự co bóp của cơ tim, chống lại hiện tượng mạch đập thất thường đồng thời phòng chống những bệnh liên quan đến động mạch vành. Điều tiết kiềm và axit trong cơ thể, còn điều tiết được cả lượng đường trong máu để phòng ngừa chứng tiểu đường. Ngoài ra còn khả năng điều tiết cả các cơ ở vùng mắt, phòng chống bệnh xơ cứng động mạch ở đáy mắt, kể cả chứng đục thủy tinh thể, tăng cường thể lực.
Đại hoàng còn có tên gọi khác là xuyên đại hoàng, tướng quân. Tên khoa học Rheum sp. Thuộc họ Rau răm Polygonaceae.
Đại hoàng (Rhizoma Rhei) là thân rễ phơi hay sấy khô của nhiều loại đại hoàng như chưởng diệp đại hoàng Rheum palmatum L., đường cổ đặc đại hoàng Rheum tanguticum Maxim. Ex Regel (Rheum palmatum L. var. tanguticum Maxim.) hoặc dược dụng đại hoàng Rheum officinale Baill. hoặc một vài loài Rheum khác. Tất cả đều thuộc họ Rau răm (Polygonaceae).
Vị thuốc có màu vàng, củ to cho nên gọi là đại hoàng, vì vị thuốc có khả năng tống cái cũ, sinh cái mới rất nhanh chóng như dẹp loạn cho nên còn gọi là tướng quân.
Vị thuốc đại hoàng chữa ứ huyết.
Trong đại hoàng có hai loại hoạt chất có tác dụng trái ngược nhau:
- Loại hoạt chất có tính chất thu liễm - là hợp chất có tanin (rheotannoglucozit).
- Loại hoạt chất có tác dụng tẩy: Rheoanthraglucozit.
Theo ThS.BS. Nguyễn Quang Dương – Khoa Nội tổng hợp Bệnh viện Tuệ Tĩnh đại hoàng có các tác dụng sau:
- Kích thích sự co bóp của ruột: Tác dụng chậm, chừng 5-10 giờ sau khi uống mới thấy tác dụng, có khi lâu hơn.
Khi uống thuốc phân mềm, vàng hay nâu sẫm, màu này một phần do màu của đại hoàng, một phần do chất mật tiết ra nhiều hơn. Thường không thấy đau bụng, tuy nhiên đôi khi thấy buồn nôn, chóng mặt hay nổi mẩn.
- Tác dụng sung huyết đối với các mạch máu trĩ: Do đó, không nên dùng đối với người bị trĩ và những người hay bị táo (vì thường sau khi gây tác dụng nhuận tràng, đại hoàng hay gây táo bón mạnh hơn trước).
- Trong đại hoàng có chứa nhiều canxi oxalat cho nên không dùng lâu cho những người bị kết thạch thận oxalic hay sổ nước nang (catarrhe vesical) vì nó có thể gây ra bệnh đái ra oxalat. Do vậy các bệnh nhân có sỏi thận hạn chế sử dụng.
- Các chất màu thấm qua máu, nước tiểu và mồ hôi, sữa… tất cả các chất bài tiết đều có màu vàng và nếu nước tiểu có phản ứng kiềm, nước tiểu sẽ có màu đỏ.
- Do có reotanoglucozit, đại hoàng có tính chất bổ, thêm vào tính chất gây co bóp nhẹ với liều thấp của các antraglucozit.
- Tác dụng diệt khuẩn (staphyllococcus, lỵ, thương hàn, tả).
Đại hoàng phối hợp với hoàng cầm và các vị thuốc khác trị nôn ra máu...
Đại hoàng được dùng cả trong Đông y và Tây y. Theo tài liệu cổ đại hoàng vị đắng tính hàn, vào năm kinh tỳ, vị, can, tâm bào và đại trường. Có tác dụng hạ vị tràng tích trệ, tả huyết phận thực nhiệt hạ ứ huyết, phá trưng hà (kết báng ở bụng) hàn thủy. Dùng chữa hạ lỵ, ứ huyết, kinh bế thủy thũng, thấp nhiệt gây vàng da, ung thũng đinh độc.
Dùng với liều nhẹ làm thuốc giúp tiêu hóa tốt, chữa kém ăn, ăn không tiêu, da vàng, hay đau bụng. Ngày uống 1 - 2 gam dưới dạng sắc, bột hay thuốc viên.
- Dùng với liều cao làm thuốc tẩy nhẹ, dùng cho người đầy bụng, đi lỵ, hoàng đản (da và mắt vàng). Ngày uống 5 - 10g. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác như chỉ thực, hậu phác, hoàng liên, mang tiêu, sẽ có công hiệu mạnh hơn nhiều lần.
Xích thược phối hợp với đại hoàng và các vị thuốc khác trị đái tháo đường biến chứng thận.